Trong truyền thống truyền lại từ xưa khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài đã từng chỉ dẫn cho các vị Tăng, Ni khi thiết lập các Tịnh Xá, Tu Viện, nơi cư trú để tránh sự xâm phạm của các loài Ác Ma, Ác Quỷ, Phi Nhân, Ác Nhân… các vị Tăng sẽ đi tìm những tảng đá tự nhiên trên núi, trong rừng mà chưa từng bị tác động bởi con người, mang về Trấn Đặt tại các vùng ranh giới của nơi cư trú sau đó trì Kinh tụng Chú tại các tảng đá đó thì nơi Cư Trú, Tịnh Xá, Tu Viện sẽ được Kiết Giới, Trấn Giữ bằng Pháp khi đó mọi thứ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên vô cùng vô tận sẽ được các vị Hộ Pháp bảo hộ…
Ngày nay, tại những đất nước Phật Giáo như Nepal, Tây Tạng, Bhutan… truyền thống này vẫn được giữ nguyên. Người Tây Tạng thường gửi gắm tâm nguyện, mong cầu vào những Hòn Đá mà họ gặp bên đường; mỗi khi dừng lại nơi đâu, họ lại dùng đá để trấn giữ; và họ thường gửi những nghiệp lực mà họ đã mắc phải vào những Hòn Đá và nhờ nó mang đi… Vậy Đá có Hồn (Hồn Đá Việt) và Ngọc là tinh túy của Đá.
Quý tộc Trung Hoa, khi sống mà Ngọc bên Người, khi chết mang Ngọc chôn cùng.
- Khi sống Ngọc dưỡng Người – Người dưỡng Ngọc.
- Khi chết, Ngọc dưỡng Cốt, tiếp Phúc cho con Cháu, gia đình, dòng họ…
Từ những bằng chứng và điển tích từ hàng ngàn năm, cùng với vốn kiến thức Ngọc Học – Tâm Linh, Vua Ngọc Bích và Hồn Đá Việt đã chọn lựa chế tác những Pháp Bảo (Bảo Vật cao quý, có tác dụng mạnh mẽ) đem dùng cho bản thân, người thân và gia đình. Nay chúng tôi xin giới thiệu lại với các bạn, những người có Duyên mà chúng ta gặp gỡ nhau.
1. Mặt Đá Ngọc Bích khắc Chú “Om Mani Pad Me Hung”
Theo kinh điển Đại thừa, chính đức Quan Âm đã cúng dàng lên đức Phật câu chân ngôn Lục tự Đại Minh này, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài Phật sự cao quý là cứu giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi các khổ nạn trên con đường tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống tán thán ca ngợi các ngài, trái đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUNG SHRI.
Chân ngôn bí mật “OM MANI PADME HUNG” là hiện thân tất cả năng lực từ bi, trí tuệ và công hạnh của đức Quan Âm tôn quý, ngài chính là hiện thân bi mẫn của tất cả chư Phật. Chữ chủng tử “OM”, sắc trắng sinh ra từ sự hiển bày của năm trí tuệ Phật, là chủng tử hợp nhất tất cả phẩm hạnh và là tinh túy Thiền định Ba la mật. Chữ này tịnh hóa tất cả phiền não của sự kiêu ngạo, có thể giải thoát được sự đau khổ của chư Thiên là cái chết và sự đọa lạc. Những sự đau khổ trong cõi chư Thiên bất khả phân với thân và công hạnh của Shatakratu, Đức Phật hiện thân cứu độ cõi chư Thiên.
- Chữ OM là sự phản chiếu của trí tuệ bình đẳng, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến Nam phương Tịnh độ, cảnh giới vinh quang và khiến họ thành tựu được sắc thân Phật Bảo Sinh.
- Chữ “MA”, sắc xanh lục xuất hiện bày tỏ lòng bi mẫn, lòng từ bi vô lượng của Đức Quan Âm tôn quý hướng về tất cả chúng sinh, là chữ chủng tử của công hạnh và là tự tính Nhẫn nhục Ba la mật. Chữ chủng tử này tịnh hóa tất cả nhân và quả phiền não của sự ganh ghét đố kị. Trên thực tế, sự đau khổ của cõi Trời Atula đều phát sinh từ những ghen tỵ, hiếu chiến và sân hận. Những đau khổ này bất khả phân với thân và công hạnh của Vemachit, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Atula ganh tỵ. Chữ “MA” là hiện thân của trí tuệ Bất Không Thành Tựu, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến cõi Bắc phương Tịnh độ, nơi mọi công hạnh viên mãn và khiến họ chứng đạt thân Phật Bất Không Thành Tựu.
- Chữ “NI”, màu vàng xuất hiện từ sự hiển bày của tất cả pháp giới và lòng từ bi vô tác diệu lực của Đức Quan Âm, là chữ chủng tử biến sự luân hồi điên đảo thành pháp giới Niết bàn nhất như, là trí tuệ Kim Cương hợp nhất của thân – khẩu – ý các công hạnh. Chủng tử NI là tự tính Trì giới Ba la mật, chữ này tịnh hóa sự ô nhiễm vô minh nhị nguyên, cùng tất cả nghiệp quả của phiền não trên bốn dòng sông lớn đau khổ của cõi Người là sinh, già, bệnh, chết. Sự đau khổ này bất khả phân với thân và công hạnh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Người. Chữ NI này tỏa rạng trí tuệ, xuất hiện rất sống động hướng dẫn sáu cõi luân hồi đến cảnh giới Tịnh độ Sắc Cứu Kính Thiên, cõi Kim Cương Giới thanh tịnh hoàn hảo và khiến chúng sinh thành tựu thân Phật thứ sáu Vajradhara (Đức Phật Kim Cương Tổng Trì).
- Chữ “PAD”, sắc xanh dương tự hiển bày từ bình đẳng xả vô lượng, lòng từ bi của Đức Quan Âm tôn quý, không phải là lòng từ ái kiến thiên vị, chữ chủng tử này là thân và là tự tính siêu việt của Trí tuệ Ba la mật. Chữ này tịnh hóa tất cả nhân, quả của vô minh phiền não, một cách cụ thể đó là những khổ đau của loài súc sinh ngu si, đần độn và nô lệ. Sự khổ đau này bất khả phân với công hạnh của đức Dhuvasimha, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Súc sinh. Chữ chủng tử PAD này tỏa rạng từ Pháp giới thể tánh trí, xuất hiện rất sống động hướng dẫn sáu đạo chúng sinh đến cõi Trung phương Tịnh độ và giúp họ chứng đạt thân Phật Tỳ lư Giá Na.
- Chữ “ME”, sắc đỏ tự hiển bày từ sự hỷ lạc vô lượng trong lòng từ bi của Đức Quan Âm tôn quý, là tất cả pháp bình đẳng, là chủng tử của khẩu và là tự tính Bố thí Ba la mật. Chữ “ME” này tịnh hóa được tất cả nhân và quả phiền não đau khổ sự đau khổ của loài Ngạ quỷ sống trong đói khát triền miên. Sự đau khổ này bất khả phân với công hạnh của đức Phật Vajlamukha, đức Phật hiện thân cứu loài quỷ đói. Chữ “ME” toả chiếu trí tuệ Diệu Quan Sát Trí, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến Tây phương Tịnh độ và giúp họ chứng đạt được thân Phật A Di Đà.
- Chữ “HUNG” xuất hiện từ sự hiển bày lòng từ bi vô lượng trong tâm từ bi của đức Quan Âm tôn quý. Ngài hộ trì, nâng đỡ tất cả chúng sinh như con đỏ của mình. Đây là chữ chủng tử của tâm, tự tính của Trí tuệ Ba la mật siêu việt. Chữ chủng tử này tịnh hóa tất cả nhân và quả của đau khổ sân giận nhị nguyên, một cách cụ thể đó là sự đau khổ của chúng sinh trong cõi Địa ngục chịu thống khổ đọa đầy bởi hai thái cực nóng và lạnh. Sự đau khổ này bất khả phân với thân và các công hạnh của Dhamaraja, Đức Phật hiện thân cứu độ chúng sinh Địa ngục. Chữ “HUNG” tỏa sáng của trí tuệ của Đại Viên Kính Trí, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến cõi Tịnh độ Đại Hỷ lạc chân thật và giúp họ thành tựu thân Phật A Súc Bệ.
– Trích dẫn từ Drukpa Vietnam: “http://www.drukpavietnam.org/cong-duc-cua-viec-tri-tung-chan-ngon-luc-tu-dai-minh” –
2. Mặt Ngọc Bích Hoa 6 Cánh khắc Chú “Om Mani Pad Me Hung”
3. Mặt dây Chuyền hình Đức Phật khắc Chú “Om Mani Pad Me Hung”
4. Mặt dây chuyền Chữ Om (trong “Om Mani Pad Me Hung”)
5. Mặt dây chuyền Hình Phật – Phật Bản Mệnh
6. Mặt dây chuyền Bát Quái – Âm Dương
7. Mặt dây chuyền Chày Kim Cang Ngọc Bích